Kiểm sát tạm giữ tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Những năm gần đây, trước tình hình tội phạm trong tỉnh, cũng như trên địa bàn thành phố Quy Nhơn diễn ra ngày càng phức; do vậy, hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò khá quan trọng. Tuy nhiên, chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của trong những năm qua cũng còn có những tồn tại, thiếu sót, chậm đáp ứng yêu cầu cải cách hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quản lý tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ và công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát TP. Quy Nhơn, đề ra quan điểm và giải pháp bảo đảm kiểm sát tạm giữ, tạm giam, ngày càng đạt chất lượng và hiệu quả cao.

Vì những lẽ trên tôi chọn đề tài: “Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Quy Nhơn; luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Nhiệm vụ của luận văn:

+ Làm rõ khái niệm, nội dung của kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Quy Nhơn, trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của kết quả và hạn chế.

+ Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam ở VKSND thành phố Quy Nhơn giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

– Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Quy Nhơn; trong đó, chỉ nghiên cứu công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam về hình sự, không đề cập về tạm giữ hành chính. Thời gian lấy số liệu trong 05 năm (2010 – 2014), trên phạm vi địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp luận: thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mà trực tiếp là các quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

– Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở vận dụng phép biện chứng của triết học Mác-LêNin, đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, dự báo, so sánh, tổng kết thực tiễn…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của VKSND thành phố Quy Nhơn nói riêng và ngành Kiểm sát nhân dân nói chung trong việc thực hiện chức năng kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

Về thực tiễn: góp phần cho việc tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, cũng như kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Quy Nhơn được thực hiện tốt hơn, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Ngoài ra, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực này.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương với các nội dung cụ thể như sau:

– Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.

– Chương 2: Thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn trong những năm gần đây.

– Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn trong giai đoạn hiện nay.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tạm giữ, tạm giam và kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tạm giữ, tạm giam

Theo Từ điển Luật học năm 2006 thì khái niệm tạm giữ, tạm giam là:

Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để cách ly họ với xã hội trong thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm.

Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân.

Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003 quy định các biện pháp ngăn chặn gồm: bắt (bao gồm bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.

Vì vậy, có thể khái quát:

Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong bộ luật TTHS do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, ngăn chặn việc tiếp tục phạm tội mới; khi cần bảo đảm thi hành án.

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do CQĐT, VKS hoặc Tòa án áp dụng nhằm buộc những người có lệnh tạm giam đang có hiệu lực pháp luật, phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định tại Nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam, nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, đảm bảo thi hành án phạt tù hoặc thi hành án tử hình.

1.1.2. Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam

* Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Theo Từ điển tiếng Việt “kiểm sát” đó là kiểm tra và giám sát.

Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn duy nhất với một loại chủ thể kiểm sát – Viện kiểm sát với quyền năng và phương thức kiểm sát riêng biệt.“Kiểm sát” với nghĩa phổ thông là “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của nhà nước”.

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam là một hoạt động của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự – một bộ phận trong những khâu công tác thực hiện chức năng của VKSND.

Theo ý kiến tác giả thì: Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm góp phần bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam; bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ.

* Đặc điểm kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Đặc trưng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam bao gồm:

Thứ nhất: là một hoạt động của những khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành KSND.

Thứ hai: là nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của cơ quan và người có trách nhiệm trong tạm giữ, tạm giam.

Thứ ba: bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam phải có căn cứ.

Thứ tư: có thể sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau như kiểm sát thường kỳ, kiểm sát bất thường, yêu tự kiểm tra và thông báo kết quả.

Thứ năm: ra quyết định và trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam bị giam giữ không có căn cứ và trái pháp luật theo quy định.

Thứ sáu: Kịp thời phát hiện và xử lý oan, sai khi kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

Thứ bảy: phát hiện có dấu hiệu tội phạm thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp trong quản lý giam giữ.

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND khi kiểm sát tạm giữ, tạm giam

– Định kỳ và đột xuất trực tiếp kiểm sát tại Nhà tạm giữ; cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp; kiểm tra hồ sơ, tài liệu về tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; yêu cầu thông báo tình hình chấp hành pháp luật; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan; ra quyết định thi hành án hình sự.

– Phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai và vi phạm pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự theo thẩm quyền; quyết định trả tự do ngay cho những trường hợp không có căn cứ và trái pháp luật;

– Đề nghị và kiểm sát việc miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia và kiểm sát việc xét, quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành án…

– Kháng nghị, kiến nghị vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;

– Khởi tố hoặc yêu cầu khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.

1.2. Nội dung của kiểm sát tạm giữ, tạm giam

1.2.1. Kiểm sát thủ tục, hồ sơ người bị tạm giữ, tạm giam

Là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của cơ quan quản lý giam, giữ, bao gồm: Giam giữ phải đúng người; đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền; khi sắp hết hạn tạm giữ, tạm giam phải thông báo cho cơ quan, đơn vị có thẩm quyền để có quyết định bổ sung hoặc trả tự do cho đối tượng khi hết hạn tạm giữ, tạm giam.

1.2.2. Kiểm sát quản lý tạm giữ, tạm giam

– Tổ chức quản lý, giam giữ phải bảo đảm theo đúng quy định.

– Việc xử lý những đối tượng có hành vi vi phạm trong khi đang bị tạm giữ, tạm giam như vi phạm nội quy, phạm tội mới, trốn…

1.2.3. Kiểm sát thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam

Kiểm sát việc bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ, được tôn trọng.

– Kiểm sát việc thực hiện chế độ ăn ở, mặc, … của người bị tạm giữ, tạm giam.

1.3. Các điều kiện bảo đảm cho công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Để hoạt động kiểm sát giam giữ đạt chất lượng và hiệu quả cần có những yêu cầu và các điều kiện sau:

1.3.1. Về hệ thống pháp luật

Để đảm bảo hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc tạm giữ, tạm giam phải xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này thật sự hoàn chỉnh và thống nhất: Các Nghị quyết của Đảng trong thời gian qua, trong BLTTHS năm 2013, Luật tổ chức Viện KSND năm 2014.

Đồng thời phải thường xuyên làm tốt công tác hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam để kịp thời loại bỏ những quy phạm pháp luật không còn phù hợp, sửa đổi, bổ sung những quy phạm pháp luật chưa sát với thực tiễn.

1.3.2. Về tổ chức cán bộ kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Về tổ chức, bộ máy của kiểm sát tạm giữ, tạm giam là một hệ thống được thành lập từ cấp TW đến địa phương, được hình thành ngay từ khi thành lập ngành KSND. Công tác tổ chức dựa trên cơ sở quy định của Luật tổ chức VKSND và đảm bảo hài hòa với tổ chức biên chế của toàn ngành nói chung và từng đơn vị nói riêng. Vì vậy, yêu cầu về tổ chức, bộ máy: phải có đủ số lượng cán bộ, KSV làm công tác này ở tất cả các cấp kiểm sát, có sự quản lý thống nhất từ Trung ương; có đội ngũ cán bộ chuyên sâu nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác; được đào tạo bài bản, có đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

1.3.3. Sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành

Việc lãnh đạo, kiểm tra của các cấp ủy Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKS có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động định hướng của ngành Kiểm sát trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ.

Công tác chỉ đạo, điều hành đòi hỏi cần được thể hiện trong việc chỉ đạo thực hiện nội dung kiểm sát qua kiểm sát thường kỳ và bất thường tại Nhà tạm giữ, phải bám sát thực tiễn, có trọng tâm, trọng điểm, quan tâm đến những vấn đề mang tính nhạy cảm và tổng hợp các vi phạm để kháng nghị chấm dứt vi phạm. Các yêu cầu của một cuộc kiểm sát phải được Lãnh đạo xét duyệt từ khi xây dựng kế hoạch, nội dung kiểm sát và khi kiểm sát phải có kỹ năng vận dụng pháp luật và kỹ năng thuyết phục, nội dung kết luận phải làm rõ từng vấn đề, nguyên nhân và trách nhiệm của lãnh đạo và từng cá nhân có trách nhiệm trong quản lý giam, giữ.

1.3.4. Các điều kiện bảo đảm khác

Cần hoàn thiện về chế độ, chính sách tiền lương, phụ cấp đặc thù cho cán bộ làm kiểm sát giam, giữ. Đồng thời, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong ngành KSND với nhau, giữa VKS cấp trên với VKS cấp dưới, giữa VKS với các ngành hữu quan.

Kết luận chương 1

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

Chương 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ

QUY NHƠN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

2.1. Thực trạng cơ cấu tổ chức kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong của ngành Kiểm sát nhân dân

2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển các quy định về kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong TTHS Việt Nam

* Giai đoạn: 1945 -1959:

Thiết chế trại giam và giám sát trại giam đã ra đời ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền Cách mạng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho Viện Công tố đảm nhận.

* Giai đoạn 1960 – 1979:

Trên cơ sở Hiến pháp 1959, năm 1960, Viện kiểm sát ra đời. Luật tổ chức Viện KSND 1960 có hiệu lực đã quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó, công tác kiểm sát giam giữ và cải tạo được quy định tại Điều 20 của Chương V.

* Giai đoạn 1980 – 1991:

Hiến pháp 1980 ra đời, nước ta được đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại điều 69, Hiến pháp 1980 đã ghi nhận nhiều quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

* Giai đoạn 1992 – 2001:

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã có sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát., khẳng định kiểm sát giam, giữ và cải tạo là một bộ phận không thể tách rời của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.

* Giai đoạn từ năm 2002 đến trước ngày 01/6/2015:

Luật tổ chức VKSND năm 2002 khẳng định rõ hai chức năng của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong đó, kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù là một bộ phận tạo thành kiểm sát các hoạt động tư pháp. Từ đây, kiểm sát giam giữ và cải tạo được đổi tên thành kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. Đồng thời vị trí, vai trò thẩm quyền, nhiệm vụ của khâu công tác này được quy định cụ thể từ (Điều 26 đến Điều 29) Chương VI, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

* Giai đoạn sắp đến (Luật tổ chức VKSND năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2015):

Luật tổ chức VKSND năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2015, tiếp tục khẳng định lại hai chức năng của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong đó, kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù là một bộ phận tạo thành kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, quy định tại Mục 2, Chương 6, từ Điều 22 đến Điều 26; và bổ sung, thêm mới nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.

2.1.2. Thực trạng cơ cấu tổ chức kiểm sát tạm giữ, tạm giam của ngành Kiểm sát nhân dân

VKSND Tối Cao có Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù nay đổi thành “Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự” (Vụ 4); VKS cấp tỉnh có “Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù” nay đổi thành “Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự’ (phòng 4) và VKS cấp huyện có “bộ phận thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự”.

2.1.3. Thực trạng cơ cấu tổ chức kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện KSND TP. Quy Nhơn, cũng như một số tình hình chung về Nhà tạm giữ trên địa bàn:

* Giới thiệu chung

Năm 1976, Tỉnh ủy Bình Định ra Quyết định thành lập Viện KSND thị xã Quy Nhơn. Đến năm 1986 đổi tên thành Viện KSND TP. Quy Nhơn, thuộc Viện KSND tỉnh Bình Định.

* Chức năng, nhiệm vụ:

Viện KSND TP. Quy Nhơn là đơn vị trực thuộc Viện KSND tỉnh Bình Định, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trên địa bàn thành phố Quy Nhơn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

* Cơ cấu tổ chức bộ phận tạm giữ, tạm giam:

Viện KSND TP. Quy Nhơn bố trí 01 Lãnh đạo PVT vừa phụ trách một khâu công tác nghiệp vụ hình sự, vừa phụ trách chung bộ phận kiểm sát tạm giữ tạm giam; bố trí 01 Kiểm sát viên, 01 Kiểm tra viên (hoặc 01 Chuyên viên), tất cả đều kiêm nhiệm công tác này và thường xuyên bị thay đổi.

* Một số tình hình chung về Nhà tạm giữ trên địa bàn:

Trên địa bàn TP. Quy Nhơn chỉ có 01 Nhà tạm giữ (tên đầy đủ là Cơ quan thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp), trực thuộc quản lý của Công an TP. Quy Nhơn. Nhà tạm giữ có tổng cộng 03 khu là Khu A, B và C. trong đó: Khu A, B (hư không sử dụng) và khu C là 27 buồng giam ( đang sử dụng).

2.2. Thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn trong những năm gần đây (từ 2010 đến 2014)

Tất cả các trường hợp giam giữ đều bảo đảm thủ tục, không có trường hợp nào giam giữ không có lệnh, quyết định. Không có trường bắt tạm giữ sau đó trả tự do không khởi tố hình sự và bị tạm giam sau đó phải đình chỉ điều tra do không phạm tội, việc bắt tạm giữ sau đó chuyển khởi tố hình sự luôn đạt tỷ lệ 100%.

2.2.1. Kiểm sát thủ tục, hồ sơ người bị tạm giữ, tạm giam

* Kiểm sát tạm giữ: thời điểm từ 2010 đến 2014, tổng hợp số liệu tạm giữ của Viện KSND TP.Quy Nhơn như bảng 1 (Phụ lục)

Qua bảng số liệu trên cho thấy số lượng tạm giữ hàng năm luôn cao, tuy nhiên chất lượng bắt tạm giữ chuyển khởi tố hình sự luôn bảo đảm và ổn định trong các năm (hàng năm, từ năm 2010 đến năm 2014 đều là 100%, tổng cộng: 521/521 trường hợp); đặc biệt là hầu như không để xảy ra tình trạng quá hạn tạm giữ.

* Kiểm sát tạm giam: Cụ thể, số liệu tạm giam từ 2010 – 2014 như bảng 2 (Phụ lục).

Qua số liệu trên cho thấy, lưu lượng người bị tạm giam luôn ở mức cao trong 05 năm gần đây; chất lượng giải quyết tạm giam luôn bảo đảm và ổn định trong các năm (mức trung bình từ năm 2010 đến năm 2014 đạt là 90,54%, 1006/1111 trường hợp); việc chấp hành thủ tục trong tạm giam được thực hiện nghiêm túc nên đã chấm dứt tình trạng tạm giam không có sự phê chuẩn của VKS và hầu như không để xảy ra tình trạng quá hạn tạm giam.

Theo thống kê, từ năm 2010 đến năm 2014, đã trả tự do cho người 11 theo khoản 1, Điều 28, Luật tổ chức VKSND 2002; 100% trả tự do trong trường hợp hết án theo Bản án và theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

* Trong thời gian 2010 đến 2014 những vi phạm thường gặp bao gồm các dạng cụ thể sau:

– Các lệnh, quyết định, biên bản vẫn còn tình trạng tẩy xóa, sửa chữa ngày, giờ tháng năm; tính thời hạn tạm giữ, tạm giam trong một số trường hợp chưa đúng theo quy định; Tòa án ra Lệnh tạm giam không ghi rõ thời hạn tạm giam; sắp hết thời hạn tạm giữ, tạm giam, nhưng không thực hiện việc thông báo bằng văn bản cho cơ quan thụ lý vụ án; Quyết định tạm giữ không ghi hành vi vi phạm cụ thể mà ghi theo tội danh; hồ sơ tạm giữ, tạm giam không có lý lịch của người bị tạm giữ, tạm giam; hồ sơ tạm giam chậm có danh, chỉ bản; cán bộ theo dõi việc can phạm ra khỏi nơi giam giữ nhưng không ghi tình trạng sức khỏe; trong hồ sơ không có quyết định phân công Điều tra viên điều tra vụ án, Kiểm sát viên kiểm sát điều tra vụ án; Quyết định xử lý kỷ luật do Phó trưởng Nhà tạm giữ (đội trưởng) ký không đúng thẩm quyền.

2.2.2. Kiểm sát quản lý người bị tạm giữ, tạm giam

Số liệu tại bảng 3 (Phụ lục) đã chứng minh những kết quả mang lại là rất đáng khích lệ, đảm bảo các chỉ tiêu mà ngành đề ra.

Có được kết quả trên là do 05 năm qua đã thực hiện nghiêm Chỉ thị, Quy chế về kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện trưởng VKSND tối cao ban hành. Nhiều kiến nghị đã được cơ quan quản lý giam giữ tiếp thu và kịp thời sửa chữa, khắc phục (số liệu ở trên). Từ đó hạn chế được nhiều vi phạm của Nhà tạm giữ, cũng của các cơ quan có chức năng trong việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời kịp thời ngăn ngừa, hạn chế được nhiều nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn tới vi phạm pháp luật.

* Trong thời gian 2010 đến 2014, phát hiện những vi phạm thường gặp, bao gồm các dạng cụ thể sau:

– Giam người chưa thành niên chung với người đã thành niên, người bị tạm giữ với người bị tạm.

– Trước tháng 6/2013, Nhà tạm giữ chưa có buồng giam riêng cho phạm nhân thi hành án hình sự tại Nhà tạm.

– Để xảy ra 01 trường hợp trốn trại, lỗi do vi phạm trong quản lý can phạm.

– Trong 05 năm từ, vẫn còn 52 lượt người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm Nội quy nhà tạm giữ (theo Biểu 3); nguyên nhân chủ quan một phần cũng từ sự thiếu quan tâm, giáo dục Nội quy Nhà tạm giữ.

2.2.3. Kiểm sát việc thực hiện các chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam

Kiểm sát việc bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.

Kiểm sát chế độ ăn, mặc, ở, … của người bị tạm giữ, tạm giam: về mức ăn theo định lượng dành cho người bị tạm giữ, tạm giam thì mức trung bình từ năm 2010 đến 2014 là không quá 18.000 đồng/người/ngày; đây là mức khá thấp so với thời giá hiện nay, và chưa bảo đảm sức khỏe cho can phạm.

* Những vi phạm thường gặp trong thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ, bao gồm các dạng cụ thể sau:

– Việc theo dõi nhận quà thăm nuôi của gia đình can phạm chỉ ghi chung chung.

– Vi phạm quy định bình quân diện tích tối thiểu nơi giam, giữ đối với người bị tạm giữ, tạm giam là 2m2/1 người.

2.3. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

* Kết quả đạt được:

Trong 05 năm qua, qua kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm (đã nêu trong phần những vi phạm thường gặp); thông qua các cuộc kiểm sát ban hành Kết luận, kiến nghị khắc phục vi phạm và đề ra biện pháp phòng ngừa và xử lý người vi phạm (Cụ thể như phụ lục 3: trong 05 năm đã tiến hành tổng cộng 21 cuộc kiểm sát trực tiếp (10 toàn diện, 10 một mặt và 01 bất thường), ban hành 21 Kết luận KSTT; ngoài ra còn ban hành 05 kiến nghị riêng ngoài Kết luận; tất cả đều được Nhà tạm giữ chấp nhận khắc phục sửa chữa)

* Nguyên nhân:

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác tư pháp; đã nhận thức được vai trò, vị trí của kiểm sát tạm giữ, tạm giam, trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện, của ngành; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành được tăng cường và thực hiện kịp thời; sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan; sự quan tâm đầu tư ngân sách đã từng bước được nâng cao hơn so với trước đây.

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân

* Một số hạn chế:

– Qua kiểm sát chưa kịp thời phát hiện hoặc chưa phát hiện được hết các vi phạm, công tác kiểm sát bất thường chưa được tiến hành thường xuyên.

– Về hồ sơ sổ sách: Hệ thống sổ sách theo dõi có lúc ghi chép chưa đầy đủ nội dung các cột mục theo quy định.

– Việc ban hành các quyết định, kế hoạch và kết luận kiểm sát trực tiếp cũng như kiến nghị vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót.

– Không kịp thời có biện pháp khắc phục sơ hở trong việc quản lý giam giữ. Chưa kịp thời kiến nghị cơ quan, người có trách nhiệm để có biện pháp khắc phục, phòng ngừa hậu quả xấu xảy ra.

– Vẫn còn một số vi phạm về hồ sơ, thủ tục; về quản lý, củng như thực hiện chế độ giam, giữ mà thông qua kiểm sát thường kỳ, bộ phận kiểm sát tạm giữ, tạm giam không phát hiện ra.

* Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất: Hệ thống pháp luật về kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ.

Thứ hai: Ý thức trách nhiệm, trình độ, năng lực cán bộ, KSV.

Thứ ba: Lãnh đạo có lúc chưa thực sự quan tâm đến khâu công tác này, sự phân công đối với cán bộ, KSV làm kiểm sát giam giữ chưa hợp lý, chủ yếu là khiêm nhiệm, thay đổi thường xuyên; còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.

Thứ tư: Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn bất cập.

Thứ năm: Sự phối hợp công tác giữa các bộ phận trong cơ quan và sự phối hợp giữa kiểm sát tạm giữ, tạm giam với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý giam giữ có khi chưa chặt chẽ.

Thứ sáu, nguyên nhân khách quan tác động trực tiếp đến khâu công tác này là điều kiện cơ sở vật chất nơi giam, giữ chưa đáp ứng đủ với quy mô và yêu cầu quản lý giam giữ:

Thứ bảy, quy định về chế độ, tiêu chuẩn đối với người bị tạm giữ, tạm giam chưa đáp ứng với yêu cầu hội nhập.

Thứ tám, các quy định khác chưa đồng bộ: Vai trò Luật sư bảo vệ; phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị phục; chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, KSV.

Kết luận chương 2

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Quan điểm về kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn hiện nay

3.1.1. Dự báo tình hình vi phạm, tội phạm và công tác tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn hiện nay

Thứ nhất: Do số lượng tội phạm có xu thế xuất hiện nhiều, các loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng đều có khả năng tăng cao, cho nên việc áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam cũng sẽ có khả năng tăng theo.

Thứ hai: hoạt động bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang sẽ tăng cao hơn so với các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Thứ ba: BPNC tạm giữ sẽ được áp dụng một cách thận trọng hơn so với thời gian trước.

Thứ tư: việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc như tạm giữ, tạm giam sẽ chỉ được áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết., tỷ lệ áp dụng các BPNC khác ít nghiêm khắc hơn như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú,…sẽ tăng cao hơn.

Thứ năm: BPNC đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, tỷ lệ áp dụng biện pháp này sẽ tăng một cách đáng kể

3.1.2. Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp liên quan đến tạm giữ, tạm giam

Nghị quyết số 48, 49 /NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị (nay là Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014) về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo chỉ rõ: VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay. Tổ chức hệ thống VKSND thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của TAND.

3.1.3. Yêu cầu đặt ra đối với kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện KSND TP. Quy Nhơn

Quán triệt, nắm vững quan điểm sự lãnh đạo của Đảng; nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND TP. Quy Nhơn trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Nắm chắc tình hình chấp hành pháp luật để quản lý, chỉ đạo và có biện pháp xử lý, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành về nghiệp vụ nhằm xử lý kịp thời chính xác, đúng pháp luật các vụ việc phát sinh.

Thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ làm kiểm sát tạm giữ, tạm giam; chú trọng, tăng cường kiểm sát định kỳ và đột xuất, áp dụng đầy đủ các biện pháp pháp luật để loại trừ vi phạm; tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, với các cơ quan hữu quan

– Quan tâm hơn nữa về chế độ chính sách tiền lương, đặc biệt là chế độ phụ cấp đặc thù đối với cán bộ, KSV.

3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn

3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

– Một là, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003.

– Hai là, xây dựng, ban hành Luật tạm giữ, tạm giam.

3.2.2. Quán triệt và nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước về kiểm sát hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam

– Tăng cường chỉ đạo các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, kiên quyết khắc phục tình trạng oan, sai.

– Chỉ đạo việc cải tạo và nâng cấp các nhà tạm giữ, cải thiện tiền ăn, ở của người bị tạm giữ, tạm giam.

3.2.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và kiểm tra của cấp lãnh đạo Viện

– Tuyệt đối tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của Viện trưởng; hải có sự phân công, phân nhiệm một cách hợp lý, khoa học; chỉ đạo kịp thời; lãnh đạo phải thường xuyên tiến hành kiểm tra.

3.2.4. Nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên

* Về nâng cao trình độ chính trị và phẩm chất đạo đức:

* Về nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ:

3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan hữu quan

– Phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng; với cơ quan quản lý giam giữ (Nhà tạm giữ); với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho Viện kiểm sát và đề nghị phụ cấp đặc thù cho những người làm công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và trong mối tương quan về mức sống với các ngành khác ở địa bàn, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc của Viện KSND TP. Quy Nhơn vẫn còn thấp, đời sống cán bộ còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc tăng cường trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác là hết sức cần thiết, đặc biệt cán bộ, KSV khi kiểm sát Nhà tạm giữ phải trực tiếp tiếp xúc với người bị tạm giữ, người tạm giam, có thể gặp những tình huống nguy hiểm hoặc môi trường có yếu tố độc hại, căng thẳng về tâm lý. Vì vậy, cần phải có chính sách đối với cán bộ làm công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

Kết luận chương 3

KẾT LUẬN

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam là một trong những khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND TP. Quy Nhơn kể từ ngày thành lập đến nay; kiểm sát tạm giữ, tạm giam đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của pháp luật, nhằm phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật; bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân, đặc biệt bảo đảm quyền con người trong xu thế cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của tỉnh nhà nói chung nói chung và của TP. Quy Nhơn nói riêng. Việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm là yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay.

Với việc sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, lịch sử, so sánh, thống kê, dự báo, tổng kết thực tiễn…về cơ bản đề tài luận văn “Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện KSND TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định” đã đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể khái quát như sau:

1. Qua việc phân tích các khái niệm tạm giữ, tạm giam; khái niệm kiểm sát, kiểm sát tạm giữ, tạm giam; đã xây dựng được khái niệm, nội dung và các điều kiện bảo đảm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam; nêu được đặc điểm của kiểm sát trong tạm giữ, tạm giam; điều này có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam của Viện KSND TP. Quy Nhơn ở giai đoạn hiện nay.

2. Trên cơ sở khảo sát thực trạng và phân tích số liệu về tổ chức và hoạt động của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ năm 2010 đến năm 2014, luận văn đã đánh giá được những kết quả đạt được, những hạn chế trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của kết quả và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

3. Trước yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, đồng thời để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm quyền con người trong xu thế cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong tình hình mới cũng như quan điểm về đổi mới về tổ chức và hoạt động của Viện KSND TP. Quy Nhơn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Việc thực hiện đồng bộ và triệt để những giải pháp này sẽ góp phần bảo đảm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ, tạm giam của Viện KSND TP. Quy Nhơn trong giai đoạn hiện nay ngày càng đạt hiệu quả thiết thực hơn./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\LUAN VAN NGUYEN QUOC DOANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *